Vua Lửa – Pơtao Apui Tiểu_quốc_J'rai

Mối quan hệ này được giữ vững từ thời các chúa Nguyễn sang thời nhà Nguyễn. Tuy nhiên đến cuối thế kỷ 19, vào năm 1898 sau khi chiếm được Việt Nam, chính quyền thuộc địa Pháp bắt đầu tổ chức cai trị trực tiếp ở đây. Các vị tiểu vương đã tổ chức chống lại và viên thanh tra Prosper Odend'hal đã bị vua Hỏa Xá Po At giết vào năm 1904. Tuy nhiên trước sự tấn công của viên sĩ quan Vincillionni kế tiếp, vua Po At đã phải chạy trốn và vai trò tiểu vương Hỏa Xá Thủy Xá cũng như tiểu quốc Jarai chính thức chấm dứt tồn tại[4].

Các tiểu vương tiểu quốc Jrai[5]:

  1. Ksor Chơlỡi. Ông này là người đầu tiên được giao nhiệm vụ giữ gươm nhưng ông cương quyết từ chối vì Pơtao phải thực hiện một chế độ kiêng khem rất nghiêm ngặt (không được ăn thịt bò, ếch nhái, lòng của những động vật nuôi trong nhà...). Vì từ chối mà ông đã bị cộng đồng giết rất dã man, chặt 2 chân, 2 tay rồi chặt đầu.
  2. R'com Trul
  3. R'com Anur. Đây là người đầu tiên thực hiện các nghi lễ cúng thần gươm và có bài cúng cầu mưa hẳn hoi. Anur chết, ông trao gươm thần cho con trai mình (người họ Siu) lên thay.
  4. Siu Bôm
  5. Siu Djua
  6. Siu Nhong. Đây là người đặt nền móng cho sự manh nha hình thành vùng lãnh thổ của Pơtao Puih. Đầu tiên ông này cũng từ chối không nhận nhiệm vụ giữ gươm vì nhà nghèo không ăn kiêng được. Dân làng thuyết phục ông 7 ngày 7 đêm, hứa sẽ cấp thức ăn cho ông ăn kiêng. Dân làng nói " Nhong ơi, nếu ông không chịu giữ thanh gươm, chắc là cả vùng mình đây sẽ chết hết thôi. Bây giờ trời đang nắng, nếu ông gõ vào nước mà có mưa, dân làng không đau ốm thì ông là người có thần, có tài, chúng tôi sẽ cùng góp rượu, góp trâu để cúng và cử ông làm Pơtao". Nhong đã đánh 7 lần vào nước, và 7 ngày sau thì mây mưa ào ào kéo đến như thác. Và ông chính thức phải nhận là Pơtao Puih, vua Lửa của tiểu quốc Jrai.
  7. Siu Blông
  8. Siu Blet. Đây là Pơtao có công rất lớn trong việc thiết lập quan hệ với người Việt. Hàng năm ông đều cử người mang quà đi tiến cống vua nước Việt và nhận quà của vua Kinh. Sử cũ có nhắc đến việc này.
  9. Siu Ji. Đây là Pơtao đã rời làng về địa điểm Plei Ơi ngày nay. Đây là thời kỳ trong xã hội Jrai xuất hiện nô lệ, thường là những người bị tội và không có tiền nộp phạt cho làng và bị những người giàu "mua" về, lấy tiền đó trả cho làng.
  10. Siu Y
  11. Siu At (1855? - 1907). Đây là vị thủ lĩnh Jrai chống Pháp ngay từ khi chúng đạt chân lên cao nguyên. Ông có một người giúp việc là A Ma Ju. Trong một lần đến sông Hinh (Phú Yên) không may con voi của ông bị đứt xích, phá rẫy của người Kinh. Những người Kinh đã bắt cả voi và người đưa về sông Cầu để Công sứ Pháp ở Phú Yên là Blainville xét xử. Viên quan người Pháp ra điều kiện sẽ cho A Ma Ju về nếu ông sắp xếp để họ được gặp vua lửa. Đến ngày hẹn, Siu At cho làm gà và mở rượu ghè đón khách như phong tục của người J’rai. Nhưng cả buổi đó, viên quan Pháp chỉ đòi được xem thanh gươm thần. Hắn âm mưa lấy bằng được gươm thần để thu phục các dân tộc Tây Nguyên. Hành động của người Pháp đã làm người J’rai nổi giận. Năm 1904, ông cùng dân làng dùng kế trá hàng - giết được tên Công sứ Pháp Odend’hal (1893? - 1904; năm 1893 tên Pháp này bị ám sát hụt). Thời kỳ này, tiểu quốc Jrai cũng bị xóa sổ và tan rã thành các vùng độc lập. Ông đánh trả thành công các cuộc tấn công của 200 tên Pháp do giám binh Vincilioni chỉ huy. Tháng 1/1905, một đại đội lính khố xanh khác do tên Renard chỉ huy, từ Chợ Đồn (An Khê) tiến lên càn quét vùng Cheo Reo nhưng bị Siu Ất đánh bại. Nhân đà đó, “vua Lửa” kêu gọi các tù trưởng khác khởi nghĩa và nhanh chóng được hưởng ứng. Ngày 23/1/1907, tên  Pari tấn công vào đồn điền Đak Foppau (Cheo Reo), nhằm vào làng Bana Kon Klott vốn đã theo ủng hộ “vua Lửa”. Tại đây, chúng bị nghĩa quân đón sẵn và phản kích dữ dội, 14 tên bỏ mạng, Pari tự sát[6]. Cuối năm 1907, quân Pháp bất ngờ tấn công Cheo Reo, bắt được ông. Cuộc chiến kết thúc.
  12. Siu Tũ. Ông thay thế Siu Ăt sau khi ông này mất. Pháp tiếp tục lùng bắt ông để lấy gươm thần, nhưng ông và dân làng quyết giữ. Điên cuồng, giặc Pháp bắt nhốt Vua Lửa Siu Tũ tại Kon Tum - từ đó nhiều câu chuyện huyền thoại về ông được mở ra. Biết Vua Lửa, tên cai ngục Pháp lệnh cho ông dùng phép làm cho cây đa cổ thụ nằm vắt ngang con sông Đăk Bla (Kon Tum) đứng thẳng lên. mặc cho súng ống bọn Pháp chĩa vào mình, Siu Tũ bước ra bến sông đọc thần chú, cầu xin và bỗng chốc cây đa dần đứng thẳng lên làm cho cai ngục khiếp sợ. Một lần khác, tên Công sứ Pháp chứng kiến sự việc vẫn không tin, muốn thử một lần nữa. Tên này yêu cầu Siu Tũ dùng gùi để đựng nước, nếu nước không chảy ra ngoài sẽ gọi Siu Tũ là “ama” (cha). Siu Tũ ung dung lấy gùi múc nước, dù nhiều lỗ ở trên gùi nhưng không có bất cứ một giọt nước nào chảy ra ngoài. Bọn Pháp khiếp sợ trước “quyền phép” của Siu Tũ nên thả ông về, riêng về tên Công sứ Pháp thua cuộc uất ức treo cổ tự tử. Khi Siu Tũ ra tù, oai danh của Vua Lửa càng vang xa, người dân các nơi kéo về cầu xin, tạ ơn kính nể Siu Tũ như một vị thần linh.
  13. Siu Nhót (1971 - 1986). Ông được Hội đồng các thân hào nhân sĩ các sắc tộc cùng Hội đồng tỉnh Kon Tum thời Việt Nam cộng hòa bầu ra ngày 20/10/1971. Thời Siu Nhót (hãy Siu Anhot), bà con các dân tộc thường mang gạo, gà, heo đến cúng, để cầu mưa[7], mừng lúa mới, lễ đâm trâu, cầu khỏi bệnh có tính chất mê tín. Khi ông "vi hành", người dân không được nhìn mặt vua, vì sợ bị cháy nhà hay bệnh hoạn - ông là hiện thân của vị thần hiện thân của thần Y Thih. Các thợ rèn thường cầu xin vua ban phép lành trước khi mở lò. Theo mô tả của Dournes: “Vị Vua Lửa” trông còn thảm hại hơn cả ông. Khoa yang chủ nhà tôi trọ, đã già, thấp đậm, khắp người đầy lông (rất hiếm thấy ở người Jarai), râu ria, đường nét thô, hai mắt to nhìn chăm chăm một chỗ, ông ngồi xổm trên chiếc chiếu lớn được trải ra dành cho ông, hút thuốc bằng ống điếu và hút rượu cần trong các ghè đặt trước mặt ông, ông uống nhiều và nói ít[8]…PGS Phan An (1990) cùng các đồng sự ở Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi đến thăm Vua Lửa ở Plei Ơi đã mô tả ông là một người Jarai "già cả, gầy gò, đóng khố, ở trần" (...) nhưng không nghĩ ông ấy (tức Vua Lửa) là một vị vua[9].
  14. Siu Luynh (1986 - 1999). Ông là cháu họ, kế ngôi sau khi Siu Nhót qua đời. Nhà cửa đơn giản, sống nghèo khổ - gần như là một thường dân. Cũng PGS Phan An (1990) khi cùng đoàn làm phim "Vua Lửa ở Tây Nguyên" đến Plei Ơi thì gặp Siu Luynh và mô tả thì cũng như xưa (thời năm 1985). TS Nguyễn Thị Kim Vân qua phỏng vấn ông, đã khắc họa truyền thuyết về "gươm thần": “Năm ấy hạn hán kéo dài, sông Apa, sông Ayun (hai con sông lớn nhất ở khu vực đông nam Gia Lai – PV) và các nguồn nước hoàn toàn khô cạn, cây rừng không mọc nổi. Người Jrai phải đào hố tìm nước uống. Các loài thú rừng cũng kéo đến cái hồ do người đào để uống nước. Chúng đạp lên nhau mà chết, con người chỉ việc lấy thịt thú rừng ăn. Nhưng rồi thú rừng cũng không còn, con người phải lấy cây mục chấm mật ong ăn qua ngày, lấy hạt cây le nấu ăn thay gạo”. Theo tiến sĩ Vân, trong hoàn cảnh ấy, ước muốn lớn nhất của người Jrai là có thể cầu xin hoặc cao hơn nữa là bắt thiên nhiên phải chiều theo ý muốn của mình. Khi đã có “chiếc gươm thần”, có yêu cầu người xứng đáng giữ gươm, có lẽ vậy mà những Pơtao Apuih xuất hiện[10].
  15. Rahlan Hieo (1999 - 2015). Ông vốn là người giúp việc cho Siu Luynh, làm "vua" sau khi người tiền nhiệm vừa mất. Rơ Lan Hieo là người duy nhất có thể điều khiển “gươm thần”, “hô mưa gọi gió”. Cuối đời do lục đục chuyện gia đình[11] nên ông lơ là trong "cai trị". Đầu năm 2015, "vua" thoái vị, đề nghị người họ Siu lên kế vị nhưng không thành. bà Siu Bian (SN 1958, cháu của vua lửa thứ 14 Siu A Luynh) chia sẻ lý do chúng tôi (họ Siu) không nhận "vì không biết điều khiển gươm, không biết thần chú gọi mưa. Hơn thế, giờ nước nôi cung cấp cho ruộng đồng đầy đủ. Bà con cũng chẳng còn phải lo hạn hán như xưa”[11].